Từ đầu năm 2023 đến nay, kinh tế thế giới gặp nhiều bất ổn xuất phát từ lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, các ngân hàng trung ương theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt và các yếu tố căng thẳng chính trị. Trước áp lực từ kinh tế thế giới, nửa đầu năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội trong nước có nhiều diễn biến không thuận lợi. GDP 6 tháng đầu năm tăng trưởng 3,72%, mức tăng thấp trong giai đoạn 10 năm qua, chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% cùng kỳ của năm 2020 do ảnh hưởng mạnh của Covid-19. Giải ngân đầu tư công còn chậm, chỉ tương đương 33% kế hoạch năm, tăng trưởng tín dụng thấp, kim ngạch xuất nhập khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ.
DƯ ĐỊA ĐẨY MẠNH CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ NGHỊCH CHU KỲ
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn, thị trường thu hẹp, đơn hàng sụt giảm đặc biệt tại các thị trường lớn như Hoa Kỳ, châu Âu và Trung Quốc. Tổng cầu giảm cho thấy nền kinh tế có nguy cơ suy thoái, điều này ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, gây ra các hậu quả như sản xuất công nghiệp sụt giảm, thất nghiệp tăng cao, giảm thu nhập và chi tiêu của người dân. Những thách thức này khiến mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023 khó đạt được.
Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đưa ra 7 đề xuất để “kích” tổng cầu, tạo điểm tựa cho tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm.
Kiến nghị thứ nhất, Chính phủ có thể xem xét đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ nhằm thúc đẩy tổng cầu và đạt được tăng trưởng ổn định trong bối cảnh suy thoái, đặc biệt khi ngân sách không quá căng thẳng và nợ công có xu hướng giảm.
Theo phân tích của nhóm nghiên cứu, tổng thu ngân sách nhà nước lũy kế 6 tháng đầu năm đạt 875,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54% so với dự toán toán năm, thặng dư hơn 70 nghìn tỷ đồng; một số khoản thu, sắc thuế chính vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ công của Việt Nam những năm gần đây giảm dần, từ 61,4% GDP năm 2017 xuống 58,3% năm 2018, 55,9% năm 2020, 43,1% năm 2021 và 38% năm 2022. Như vậy, thặng dư ngân sách và tỷ lệ nợ công giảm là những cơ sở quan trọng để đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ.
Kiến nghị thứ hai, tháo gỡ vướng mắc khi giải ngân vốn đầu tư công.
Để chính sách tài khóa thực sự trở thành “chủ công” trong tiến trình phục hồi, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh việc đưa dòng vốn đầu tư công sớm chảy vào nền kinh tế và cần triển khai quyết liệt một số giải pháp.
Một, cần sửa đổi, hoàn thiện quy định theo hướng giảm vướng mắc trong tất cả các khâu quản lý dự án, từ chuẩn bị đến quy hoạch và thực hiện. Theo đó, cần nghiên cứu thêm trường hợp chủ đầu tư có thể chủ động sử dụng một số khoản kinh phí hợp pháp ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn (kể cả nguồn vốn chi thường xuyên) để lập dự án, chuẩn bị đầu tư trước thay vì phải đợi tổng hợp hay bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Bên cạnh đó, cần bổ sung thêm các quy định về điều kiện phân bổ kế hoạch vốn hằng năm cho các nhiệm vụ chuẩn bị và quy hoạch, tạo điều kiện cho chủ đầu tư tiếp cận được vốn cho nhiệm vụ chuẩn bị và chủ động lập kế hoạch đầu tư.
Hai, giải quyết các vấn đề cốt lõi về giải phóng mặt bằng. Để giải quyết nút thắt này, nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đề xuất khi xây dựng bảng giá đất hàng năm, cần chú trọng đến khả năng sinh lợi của từng khu vực, vị trí đất, nhất là đối với đất nông nghiệp, các vị trí thuận lợi kinh doanh để xác định mức bồi thường phù hợp với giá trị thực tế; cần xác định chính xác tổng mức đền bù của dự án, tránh trường hợp không đáp ứng đủ cầu.
“Khi xây dựng kế hoạch đầu tư cần xác định rõ quỹ đất tái định cư, phát triển hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, đảm bảo chất lượng cuộc sống của người dân; phối hợp với các trung tâm dịch vụ việc làm, lên kế hoạch định hướng, đào tạo nghề để người dân có công ăn việc làm ổn định thay vì chỉ chi trả bằng tiền”, nhóm nghiên cứu lưu ý.
Ngoài ra, tăng cường công tác rà soát, quản lý việc sử dụng đất đai trên địa bàn. Đặc biệt, với những hộ sử dụng trái phép hoặc sai mục đích, có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế khi không chấp hành bàn giao mặt bằng.
DUY TRÌ THẶNG DƯ THƯƠNG MẠI BỀN VỮNG
Trong nhóm 7 kiến nghị được đưa ra, nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tập trung gỡ khó và đưa ra nhiều giải pháp quan trọng giúp xuất khẩu bền vững và duy trì thặng dư thương mại.
Kiến nghị thứ ba, giảm thiểu rủi ro do điều tra phòng vệ thương mại.
Phòng vệ thương mại là công cụ để các quốc gia bảo vệ hàng hóa trong nước cũng như định hình thị trường nhưng lại dẫn tới nguy cơ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ngày càng lớn. Theo báo cáo của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), đến hết tháng 6/2023, hàng xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với 231 vụ việc phòng vệ thương mại do các nước khởi kiện; trong đó, đứng đầu là các vụ điều tra chống bán phá giá (128 vụ việc), tiếp đó là các vụ việc tự vệ (47 vụ việc), chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (33 vụ việc) và chống trợ cấp (23 vụ việc). Các vụ kiện phòng vệ thương mại chủ yếu do các quốc gia cho rằng hàng hóa Việt Nam đang được bán phá giá.
Vì vậy, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng cần triển khai một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro do điều tra phòng vệ thương mại hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Một, cần đẩy mạnh công tác dự báo, cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp những mặt hàng có thể gặp rủi ro bị tiến hành điều tra.
Hai, thực hiện các giải pháp chứng minh hàng hóa Việt Nam không bán phá giá. Theo đó, doanh nghiệp cần sử dụng nguyên, vật liệu có nguồn gốc xuất từ các quốc gia nằm trong các hiệp định thương mại tự do Việt Nam ký kết để minh chứng nguyên, vật liệu được nhập khẩu từ thị trường ưu đãi, giá nhân công tương đối thấp, cấu thành mức giá xuất khẩu phù hợp, không có trợ cấp của Chính phủ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tránh nhập khẩu nguyên, vật liệu từ các quốc gia đang bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Vai trò của các cơ quan Nhà nước rất quan trọng trong hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ minh chứng, thiết lập quy trình thực hiện cụ thể.
Ba, cân bằng cán cân thương mại với các đối tác. Nguyên nhân xảy ra điều tra phòng vệ thương mại đó là kim ngạch xuất khẩu một mặt hàng cụ thể tăng đột biến, hoặc khi Việt Nam duy trì thặng dư thương mại quá lớn tới một số thị trường, tiêu biểu là Hoa Kỳ, cũng khiến các hàng hóa của Việt Nam có khả năng thuộc diện bị điều tra nhiều hơn.
Vì vậy, “các giải pháp giúp cân bằng cán cân thương mại cần triển khai quyết liệt hơn nữa, triển khai nhiều hơn các chương trình giúp doanh nghiệp của các đối tác lớn tiếp cận với doanh nghiệp trong nước”, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đề xuất.
Kiến nghị thứ tư, phát triển du lịch hướng tới cân đối cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ.
Hiện Việt Nam nhập siêu dịch vụ lớn và liên tục nhiều năm qua. Trong 3 năm gần đây, nhập siêu dịch vụ luôn vượt con số 10 tỷ USD, riêng trong 6 tháng đầu năm 2023, nhập siêu dịch vụ lên tới 4,1 tỷ USD.
Vì vậy, điều cấp thiết là thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ hướng tới cân đối cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ một cách bền vững. Xuất khẩu dịch vụ hầu như phụ thuộc chủ yếu vào du lịch. Do đó, muốn giảm nhập siêu dịch vụ cần có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam.
Đúc kết từ kinh nghiệm của Thái Lan, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân gợi ý doanh nghiệp khách sạn, nghỉ dưỡng cần hợp tác với các hãng hàng không để bán vé trọn gói vận chuyển, lưu trú, tham quan, mua sắm. Hàng không cũng cung cấp cho các công ty du lịch một lượng vé với giá bay thấp hơn giá vé khách đặt lẻ trực tiếp với hãng hàng không. Đồng thời, chính quyền các địa phương cũng cần có chính sách hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác giữa công ty du lịch và hãng không nhằm kích cầu du lịch quốc tế.
Kiến nghị thứ năm, phát triển xuất khẩu bền vững đi liền với đa dạng hóa thị trường, hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác.
“Việt Nam đang phụ thuộc chủ yếu vào một số thị trường xuất khẩu lớn. Vì vậy, khi các quốc gia này rơi vào giai đoạn khủng hoảng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với những cú sốc lớn và bị gián đoạn. Mặt khác, các nhà sản xuất Việt Nam đang gặp nhiều thách thức khi sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi năng lượng xanh sạch, sản xuất cacbon thấp, vật liệu bền vững, sản xuất thân thiện môi trường từ thị trường nhập khẩu”, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nêu rõ thực tế.
Nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa bền vững đi liền với đa dạng hóa thị trường hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác, nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng cần mở rộng giao thương với các thị trường trong các FTA ký kết, thay vì chỉ tập trung sâu một số thị trường lớn.
Bên cạnh đó, cần rà soát và ban hành tiêu chuẩn khung pháp lý về sản xuất xanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, khung pháp lý liên quan đến cấp tín dụng xanh, chương trình kích cầu đầu tư, hỗ trợ lãi suất vay, phát hành trái phiếu xanh cũng cần được sớm hoàn thiện để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn và các tổ chức tín dụng thuận lợi hơn trong cấp tín dụng xanh.
“Thông đường” giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn
Một trong những khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, là việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng do khó đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về điều kiện vay vốn. Do đó, nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đưa ra kiến nghị nhằm tháo gỡ khó khăn này.
Kiến nghị thứ sáu, cần có các chính sách giúp tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận vốn tín dụng.
Theo đó, nhóm nghiên cứu cho rằng cần thực hiện hiệu quả các quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ tại các tổ chức tín dụng, giúp doanh nghiệp giảm áp lực về tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro. Về phía Ngân hàng Nhà nước, cần giám sát chặt chẽ quá trình triển khai của các tổ chức tín dụng để phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các trường hợp không thực hiện đúng quy định hoặc có biểu hiện trục lợi chính sách nhằm làm sạch sổ sách, báo cáo.
Bên cạnh đó, cần phát triển các sản phẩm tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khó khăn của phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay là không tuân thủ chuẩn mực kế toán do thiếu hụt về nhiều nguồn lực, số liệu trong các sổ sách kế toán không khớp nhau, thiếu minh bạch giữa tài chính của cá nhân, chủ sở hữu và doanh nghiệp, không có tài sản đảm bảo,… do đó, nhiều trường hợp khó đáp ứng được điều kiện vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng cũng không thể hạ chuẩn vay do cần tuân theo các quy định pháp luật hay tiêu chuẩn Basel quốc tế.
Vì vậy, “trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại cần tích cực hơn nữa trong việc phát triển các sản phẩm tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, như: tài trợ chuỗi cung ứng; cho vay thấu chi doanh nghiệp; cho vay đầu tư tài sản cố định gián tiếp; cho vay mua, phân phối ô tô; các sản phẩm tín dụng ngành tiềm năng”, nhóm nghiên cứu gợi mở.
Để gỡ khó khăn về tài sản đảm bảo, các ngân hàng có thể cân nhắc các giải pháp linh hoạt như: cho phép thế chấp khoản phải thu, quyền đòi nợ hình thành trong tương lai từ hợp đồng thương mại, thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay để hỗ trợ doanh nghiệp.
Kiến nghị thứ bảy, cải thiện chính sách an sinh xã hội cho người nghèo hướng tới tăng trưởng bền vững và bao trùm. Theo đó, phải đưa nhóm yếu thế vào trung tâm, trọng tâm của các chính sách an sinh xã hội. Ngoài ra, cần đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới, tạo sự thống nhất và thuận lợi trong việc quản lý, tiếp cận phát triển, cũng như hỗ trợ các đối tượng cần thụ hưởng.